Cửu huyền: Nghĩa là 9 đời hay 9 thế hệ
1. Cao Tổ: Ông sơ
2. Tằng tổ: Ông cố
3. Tổ phụ: Ông nội
4. Phụ: Cha
5. Bản thân
6. Tử: Con trai
7. Tôn: Cháu nội
8. Tằng tôn: Chắt (cháu cố)
9. Huyền tôn: Chít (cháu sơ)
Thất Tổ gồm có:
7. Thỉ Tổ (Tỷ Khảo) : Thất Tổ
6. Viễn Tổ (Tỷ Khảo) : Lục Tổ
5. Tiên Tổ (Tỷ Khảo) : Ngũ Tổ
4. Cao Tổ (Tỷ Khảo) : Tứ Tổ
3. Tằng Tổ (Tỷ Khảo) : Tam Tổ
2. Nội Tổ (Tỷ Khảo) : Nhị Tổ
1. Phụ thân (Tỷ Khảo) : Nhứt Tổ
1. Truyền thống ở gia đình Việt Nam chúng ta thường chỉ thờ cúng Cửu huyền, còn Thất tổ thì chỉ dành cho vua chúa mới được thờ cúng.
Nho giáo cho rằng “Cửu huyền Thất Tổ” là một hệ thống, trong đó Cha không liệt vào Thất Tổ và qui định cách thờ Tổ Tiên có thứ bậc từ dân cho đến vua như sau:
- Sĩ và thứ dân chỉ được thờ tới Nhất Tổ (祖, Tổ, Ông Nội).
- Các quan Ðại Phu được thờ tới Tam Tổ (高祖, Cao tổ, Kị).
- Các vua chư Hầu được thờ tới Ngũ Tổ (玄祖, Huyền tổ, Sơ).
- Hoàng Ðế (Thiên tử) thì thờ tới Thất Tổ (遠祖, Viễn tổ)
Theo đó, thờ Thất tổ chỉ dành chua Vua, dân thường không được thờ. Khi muốn thờ Tổ Tiên cao hơn nữa thì người dân nói là thờ Cửu Huyền, tránh dùng chữ Thất Tổ mà bị tội phạm thượng.
2. Cửu huyền thì tính từ bản thân mình làm mốc, trên chúng ta có 3 thế hệ, bản thân (ta) và dưới có 4 thế hệ. Chúng ta thờ 3 thế hệ ở trên thì không có gì phải suy nghĩ, nhưng tại sao lại phải thờ thêm cả ta và 4 thế hệ ở dưới?
Bởi vì, cuộc sống là một chuỗi mốc xích tương quan với nhau và trùng trùng duyên khởi.
Thờ cúng 3 thế hệ ở trên là thờ cúng những người đã có công sanh, nuôi dưỡng và xây dựng sự nghiệp cho chúng ta nên người, uống nước nhớ nguồn...
Thờ cúng 5 thế hệ sau (có cả ta): là để nhắc nhở cho chúng ta kiếp hiện tại này phải làm những điều phước thiện và tin hiểu luật nhân quả 3 đời: quá khứ – hiện tại – tương lai đều có mối quan hệ với nhau. Dân gian có câu: “Đời cha ăn mặn, đời con uống nước” hoặc câu: “Nhứt nhơn tác phước thiên nhơn hưởng, độc thọ khai hoa vạn thọ hương”...
3. Bàn thờ “Cửu huyền thất tổ”:
Bài vị ở giữa ghi chữ 九玄七祖 (Cửu huyền thất tổ)
Đôi liễn hai bên bên trái viết: 崇德九玄恩上重 (âm: Sùng đức Cửu Huyền ân thượng trọng, nghĩa: Kính bái đức độ của Cửu Huyền đó ơn cao trọng) và bên phải viết: 尊功七祖義高深 (âm: Tôn công Thất Tổ nghĩa cao thâm, tức là: Tôn trọng công nghiệp của Thất Tổ là nghĩa cao sâu).
Thực tế ít gia đình lập bàn thờ “Cửu huyền thất tổ” riêng mà thường đặt chung một ban thờ, và không hẳn ai cũng có thể hiểu được “ngọn nguồn” mà chỉ hiểu chung là kính nhớ Tổ tiên. Cốt ở tấm lòng !
Nguồn: Hoalinhthoai.com và các nguồn.
I.- TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Hiện nay, rất nhiều gia đình người Việt miền Nam, nằm trong nhóm theo Đạo “thờ cúng ông bà”, đạo Phật, đạo PGHH, đạo Cao Đài , thường có treo bộ “Liễn thờ”, lộng kiếng, nằm phía sau bàn thờ tổ tiên vốn luôn dựa lưng vào tấm vách lòng giữa nhà để có thể quay mặt nhìn thẳng ra sân trước. Tại nơi giữa của bộ khung “liễn thờ” này bao giờ cũng có 4 đại tự bằng chữ Hán, đọc theo âm Việt là “Cửu Huyền Thất Tổ” , được viết nghiêm trang, tề chỉnh theo chiều dọc.
(Bộ “liễn thờ”này hiện không biết làm ra từ đâu nhưng thường thấy thương nhân bán lẻ chở trên xe ba bánh , xe hai bánh hoặc trên xuồng ghe dưới sông để bán bình dân cho bất kỳ ai có nhu cầu mua; tập trung nhất là vào khoảng thời gian gần Tết Nguyên đán). Từ đây, vào đêm 30 tết , người ta thường bảo: “cúng rước Ông Bà”; vào sáng mùng 3 tết , người ta thường bảo: “cúng đưa Ông Bà ” nhưng khi mọi người tiến hành nghi thức truyền thống thì lại bảo là “vái lạy tổ tiên” hoặc “ vái lạy Cửu Huyền Thất Tổ”.
Có lần, một lão nông cùng một thiếu niên hỏi tôi Cửu Huyền Thất Tổ là gì ,gồm cụ thể những ai, thì tôi đành ú ớ vì không biết, dù Tết nào bản thân mình cũng phải quỳ trước bàn thờ để vái lạy vào nơi có treo 4 đại tự nói trên. Thế là, từ đó, tôi bèn để tâm sưu tra sách vở gần xa để mong hiểu được ít nhiều về nó. Và dưới đây là những gì tôi biết được; dù chắc chắn là chưa cụ thể , đầy đủ lắm song cũng xin trình bày ra đây nhân dịp Tết đến xuân về để bà con bạn đọc gần xa có thêm tư liệu mà tọa đàm luận bình thêm bớt những lúc ngồi bên chén rượu chung trà dĩa mồi khay bánh cùng nhau.
II.- TRA CỨU VỀ NGHĨA CỦA “CỬU HUYỀN THẤT TỔ”
A.- Xin nói trước rằng , trong Hán Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh không có từ mục “Cửu Huyền” lẫn “Thất Tổ”. Càng không có tổ hợp từ Cửu Huyền Thất Tổ bên trong. Tra Từ Nguyên, Từ Hải lẫn Khang Hy từ điển bên Trung Quốc thì cũng tương tự như vậy . Tra sang Phật Học từ điển của cụ Đoàn Trung Còn thì vẫn không thấy. Tra qua kinh giảng của giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo thì thấy có dùng cụm từ này nhưng không thấy định nghĩa, giải thích nội dung.
B.- Theo Cụ Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, hiệu là Đức Nguyên: có đến 2 cách, mang 2 nội dung nghĩa khác nhau.
Theo cách 1: Cửu Huyền có nghĩa là “9 đời ”.
Bản thân ta là 1. Phụ thân (cha) ta là 2. Nội tổ (ông nội) ta là 3. Tằng tổ (ông cố) ta là 4. Cao tổ (ông sơ) ta là 5. Tiên tổ (cha của ông sơ) ta là 6. Viễn tổ (ông nội của ông sơ) ta là 7. Cao cao tổ (ông cố của ông sơ) ta là 8. Thỉ tổ (ông sơ của ông sơ) ta là 9.
Còn Thất Tổ có nghĩa là “7 đời tổ”. Nó chính là từ đời ông nội ta đếm lên tới ông sơ của ông sơ ta , cũng theo nơi thang bậc Cửu Huyền vừa kể. Lấy Cửu Huyền trừ ra đời cha ta và đời bản thân ta thì thành Thất Tổ).
Theo cách 2: Cửu Huyền cũng có nghĩa là 9 đời.Từ trên đếm xuống: Ông sơ ta là 1. Ông cố ta là 2. Ông nội ta là 3. Cha ta là 4. Bản thân ta là 5. Con trai (tử ) ta là 6. Cháu nội (tôn) ta là 7. Cháu cố (tằng tôn) ta là 8. Cháu sơ (huyền tôn) ta là 9.
Còn Thất Tổ thì cũng là 7 đời. Nói cho ngắn gọn: thêm cha ta vào ,đồng thời đôn ông cố của ông sơ ta lên làm thỉ tổ sau khi bỏ ông sơ của ông sơ ra, theo cái list Cửu Huyền ở cách 1, thì đấy là Thất Tổ.
Tới đây, tôi xin kể ra thêm một nguồn dữ liệu khác ,mang tính lịch sử , có liên quan đến cụm từ Cửu Huyền Thất Tổ này, xuất hiện vào một thời kỳ xa xôi, ở bên Trung Quốc.
III.- SỰ XUẤT HIỆN THUẬT NGỮ “CỬU HUYỀN”
A.- Xin bắt đầu từ Lão Tử, một triết gia tồn tại vào thời Xuân Thu ở Trung Quốc cổ đại, tổ sư của trường phái Đạo gia (lớn hơn Khổng Tử khoảng 20 tuổi),cũng là một trong nhiều nhân vật được tôn thờ nơi đạo Cao Đài ngày nay song song với Khổng Tử , Phật Thích Ca .... Theo Lão tử, siêu việt và có trước vạn hữu đang vây quanh ta hiện nay là một thực thể rất linh diệu , nhiệm mầu không thể nghe được, không thể thấy được, không thể diễn tả được ; nếu kêu lên và đặt tên được cho nó thì không còn là nó nữa (Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh) nên tạm quyền biến mà gọi là Đạo . Đây là cái sinh ra vạn cái (nhất bản tán vạn thù); rất “huyền chi hựu huyền” mà lại “chúng diệu chi môn” (một thể sâu thẳm lặng lẽ, càng rất sâu thẳm lặng lẽ, nhưng lại là cái cửa mà mọi thứ từ đó diệu kỳ xuất hiện, làm nên vạn vật nơi thế gian). Dĩ nhiên, đây chỉ là quan điểm triết học mang tính duy tâm chủ quan của Lão tử về thế giới với quan niệm Đạo như là yếu tố đầu tiên khởi sáng ra vũ trụ - con người . Thế nhưng , sang thời Chiến Quốc, lợi dụng tình trạng chiến tranh loạn lạc khổ não đang hồi liên miên bất tận khiến nhân dân khắp nơi đều đâm ra chán ngán thế sự nhân sinh, một số kẻ cơ hội chủ nghĩa lẫn cơ trí bấy giờ, gọi là các phương sĩ, manh nha giải thích cái thực thể “huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn” nói trên của Lão Tử theo hướng thần tiên hóa; đối với giai cấp vua chúa chuyên gây chiến tranh thôn tính và xa hoa dâm dật bấy giờ thì lại bịa đặt ra rằng có thể tìm tới xứ tiên và xin được thuốc trường sinh bất tử nhằm “vạn thọ vô cương”, kéo dài sự khoái lạc vật chất trên đời. Cái sự này kéo dài tới thời Tần Thỉ Hoàng (221tr.cn -206 tr.cn), qua thời Tây Hán (206 tr.cn -8cn) không những không chấm dứt mà còn phát triển với nhiều biến tướng khác nhau.
Sang thời Đông Hán (25-220: triều đại này từng có Bà Trưng ở nước Việt ta khởi nghĩa , đuổi được quan thái thú sở tại, tên là Tô Định, trốn chạy về nước …), Trung Quốc vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng rối loạn không ngưng. Có một người tên là Trương Lỗ, cháu của Trương Lăng , con của Trương Hoành , kế thừa thành tựu của cha ông , đã duy trì, biến cải, lập ra Đạo “ngũ đấu mễ” cách tân (ai xin vào thì phải nộp “5 đấu gạo” nên có cái tên gọi này) để chiêu nạp binh sĩ – tín đồ, chiếm được vùng Hán Trung rồi dựng lấy một nước riêng cho mình tại đây. Bấy giờ, trong phương sách nội trị, ông buộc các giáo đồ - binh sĩ thuộc quyền phải học tư tưởng về Đạo của Lão tử theo hướng tiếp tục bị thần tiên và trường sinh hóa sau khi Lão tử được tôn thành thần , gọi là “Thái Thượng Lão Quân”. Như vậy, tới đây, Đạo gia đã chính thức biến thành Đạo giáo và Đạo giáo đã kết hợp với chính trị một cách nhuần nhuyễn.
B.- Tới thời Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều(265-589), Đạo giáo bám sâu , mở rộng ra khắp xã hội. Bấy giờ , có một người tên là Cát Hồng( 283-363), hiệu là Bao Phác Tử , lập ra Đạo “Kim Đan” bằng cách kết hợp đạo Phật và Đạo giáo vào nhau, với mục đích vừa dưỡng sinh , vừa tu tiên ; chủ yếu dành cho giai cấp quý tộc cầm quyền giàu có. Song song đó, đối với quần chúng bị trị, ông này cổ súy, chủ trương kết hợp “ngoài Nho trong Đạo”để trị quốc an dân. Bấy giờ, trong nhiều kinh sách khác nhau của Cát Hồng, người ta có thể bắt đầu nhặt ra được từ Cửu Huyền bên trong.
Điển hình một câu sau đây: “Cửu thiên chân nữ ngự phi phượng , bạch loan, du ư cửu huyền chi thượng” (Tạm dịch: Cửu Thiên Chân Nữ ngự trên chim loan chim phượng bay vui vào chốn cửu huyền).
C.- Như vậy, mà cũng căn cứ vào sự giải thích nơi quyển Hán Ngữ Đại Từ Điển, do Hán Ngữ Đại Từ Điển Xuất Bản Xã thuộc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hiện nay ấn hành vào tháng 9 năm 1986, do La Trúc Phong ch�irc;ng ta rồi phong cho làm Quốc Sư. Từ đây, Đạo giáo phía Bắc Trung Quốc càng thịnh hành, được gọi mới là Bắc Thiên Sư đạo , song song tồn tại với Kim Đan đạo .
D.- Trong lúc đó ,ở Nam Triều, tại nước Tống (420-589), có một đạo sĩ tên là Lục Tu Tỉnh chủ trương kết hợp Bắc Thiên Sư đạo với Kim Đan đạo làm một. Ông này cho rằng Phật giáo và Đạo giáo tuy có hai đường lối tu hành khác nhau nhưng chỉ chung cùng một mục đích . Ông bèn lấy nghi thức tu hành của Phật giáo cải biến đi ít nhiều rồi đem dùng cho Đạo giáo của ông, được gọi là Nam Thiên Sư đạo. Nam Thiên Sư đạo này được vua chúa phong kiến ở Trung Quốc bấy giờ và sau đó tín ngưỡng và trọng dụng . Đến nỗi, vào đời Đường (618-907), có một hoàng đế tự xưng mình là con của Lão Tử. Có vị khác mê tín thuốc tiên, uống linh đan vào mà phải ngã lăn ra chết vì ngộ độc. Còn Đường Huyền Tông thì lập ra Sùng Huyền Quán , chuyên chú sớ Đạo Đức kinh của Lão Tử, thậm chí nhận các đạo sĩ làm tôn thất.
Sang đời Tống (960-1279), vua Tống Chân Tông suy tôn Lão Tử là “Thái Thượng Hỗn Nguyên Hoàng Đế”.
IV.- SỰ XUẤT HIỆN THUẬT NGỮ “CỬU HUYỀN THẤT TỔ”
A.- Nguyên nhân tổng hợp hai thuật ngữ
Đến thời Lý - Trần ở nước ta(1010-1400), bên Trung Quốc có một đạo sĩ , tên là Vương Trùng Dương, lập ra đạo Toàn Chân trên cơ sở Đạo giáo đương thời nhưng lại không còn chú trọng đến yếu tố thần tiên, phù phép và luyện linh đan nữa. Tư tưởng trung tâm của Đạo này là tam giáo hợp nhất:
Từ đây, Vương Trùng Dương lấy Hiếu Kinh của Nho giáo; Tâm Kinh của Phật giáo; Đạo Đức Kinh của Lão Tử để dạy tu hành cho tín đồ của mình. Do vậy, đến đây, ta không thể không nói rằng thuật ngữ Cửu Huyền của Đạo giáo xưa kia không thể không đậm thêm lần nữa tư tưởng của Phật Giáo và của Nho giáo bên trong (đã manh nha từ Kim Đan đạo vào thời của Cát Hồng). Và, ngược lại, đến đây, tư tưởng của Nho giáo (bắt nguồn từ Nho gia. Trở thành Nho giáo vào đời Hán Vũ Đế bên Tàu) , của Phật giáo , khi chỉ về một cõi “siêu thế gian” nào đó , nơi mà bất cứ người đời nào cũng phải “tử quy”, thì cũng không thể bảo rằng không bị ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng thần tiên siêu thoát của Đạo giáo.
Cái sự này thấy rất rõ trong ngôn từ của dân ta hiện nay: “Quy Tiên”, “nhập Niết Bàn”, “trực vãng Tây Phương”, “chầu Trời”… đều là những khái niệm đồng nghĩa với tình trạng đã chết của một chủ thể nào đó. Vì rằng, vào lúc này, khi các vua nhà Lý ở nước ta chính thức “nhập khẩu”Đạo nho từ Trung Quốc vào, chính thức lập miếu thờ các vị tổ sư của Đạo Nho trên đất nước ta (và các vua nhà Trần vẫn còn tiếp nối) , thì không thể không đồng thời nhập khẩu luôn cái tình trạng Tam Giáo Hợp Nhất nói trên vào ý thức xã hội bấy giờ , lẫn trong ngôn ngữ sử dụng hằng ngày .
Mà , theo tôi, Cửu Huyền Thất Tổ là một dạng hợp nhất về ngôn ngữ như vậy. Vì sao? Vì , rõ ràng, Cửu Huyền là thuật ngữ có nguồn gốc từ Đạo giáo xưa kia, như trên đã nói; có tận vào thời của Cát Hồng. Còn “Thất Tổ” thì rõ ràng lại là ngôn từ của Nho gia. Nó là một trong những khái niệm nằm trong hệ thống tư duy tông pháp của Đạo Nho, có từ thời Hạ, Thương, Chu bên Tàu, trước khi Đạo gia lẫn Đạo giáo ra đời rất lâu. Nó có nghĩa là “thất đại tổ tiên” (bảy đời tổ tiên), cũng theo Hán Ngữ Đại từ điển nói trên. Như vậy, nảy sinh một câu hỏi thú vị sau đây: sự hợp nhất ra tổ hợp từ Cửu Huyền Thất Tổ này có từ lúc nào? Và có nghĩa chung ra làm sao?
B.- Thời điểm xuất hiện thuật ngữ “Cửu Huyền Thất Tổ” :-
Theo lịch sử Trung Quốc thì cuối đời nhà Đường bên Tàu (618-907) nội chiến xảy ra khắp nơi và liên tục. Phía Bắc Trung Quốc, từ năm 907-960, có tất cả 5 triều đại thay nhau lên cầm quyền. Tại phía Nam, có 10, trong đó có một triều đại gọi là Tiền Thục. (Lúc này, nhân cơ hội nhà Đường tự tan rã nói trên mà dân Việt Nam ta dần dần giành được độc lập …).
Bấy giờ, tại nước Tiền Thục này có một Đạo sĩ nổi tiếng , tên là Đỗ Quang Đình. Ông có viết một quyển kinh , tựa là “Trung Nguyên chúng tu kim lục trai từ”. Trong quyển kinh này có một câu như sau:
“Thần đẳng Cửu Huyền Thất Tổ thụ phúc chư thiên di tộ lưu tường truyền hưu vô cực”.
(Tạm dịch: Cửu Huyền Thất Tổ của chúng thần ,thụ phúc từ Chư Thiên, lưu giữ và truyền tiếp không ngưng nghỉ sự thụ phúc ấy đến vô cực cháu con”).
Như vậy, rõ ràng, chậm lắm là vào thời Tiền Thục này (907-925), tổ hợp từ Cửu Huyền Thất Tổ đã ra đời và được các đạo sĩ dùng trong việc “chuyện trò” tại các buổi tụng cầu cúng đấng “Chư Thiên” của mình. Dù mang màu sắc của Đạo giáo, nhưng đấy lại là một tổ hợp từ phản ánh một nội dung đối tượng rất trần thế. Đó là các đời tổ tiên, vừa xa vừa gần , của một chủ thể nhất định . Và các đời tổ tiên này chỉ là những người đã “du” về một “tiên cảnh” nào đó chứ không phải là “đã chết”.
Tới đây, có một vấn đề cần làm rõ. Cửu Huyền thì không cần bàn về nguồn gốc cùng ý nghĩa của nó nữa. Nhưng tại sao lại kết hợp với “Thất Tổ” mà không phải là với “ lục tổ” hay “ngũ tổ” để chỉ các đời ông bà đã “cưỡi hạc quy tiên” của mình?
Theo tôi, là như thế này. Đạo giáo là kết quả của sự thần tiên hóa từ Đạo gia, với nhiều biến thể khác nhau, từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc cho mãi đến thời Minh – Thanh gần đây, thậm chí cho đến tận bây giờ, kể cả bên Việt Nam ta. Mà Đạo gia thì xuất hiện sau Nho gia. Bản thân chữ “cửu” trong từ "cửu huyền”, ngay lúc đầu, đã không mang nghĩa là con số 9 của số học. Không thể hiểu nó theo kiểu “chín huyền thể ” được. Mà phải hiểu “Cửu” là sự “tối tột”. Ngoài việc có ý nghĩa là con số 9 của số học ra , nó còn là một khái niệm chỉ sự “tuyệt cực ”trong Dịch học, một kiểu loại ngôn ngữ đặc biệt , xuất hiện vào tận thời Phục Hy bên Tàu (4477-4363 tr.CN). Cụ thể hơn, trong Dịch học, số 9 (Cửu) đúng là con số mang ý nghĩa thái dương (nghịch ngược với thái âm).
Và, một khi như thế, khi dùng Cửu Huyền như một đơn vị từ tố kép , có giá trị cấu tạo ra cái tổ hợp mà chúng ta đang bàn, thì người ta hồi ấy không thể không dùng con số 7 (thất) với 2 lý do nội tại cơ bản như sau: Một, để cho phù hợp về tư duy đăng đối trong thiết kế câu từ vốn có ở người Trung Quốc xưa. Hai, quan trọng hơn, 7 vẫn là con số của Dịch học, chỉ tình trạng “dương tính tuyệt cực” đứng sau con số 9 (Cửu) đã dùng ở trên rồi . (Trong Dịch học, nó là số Thiếu Dương).
Như vậy, theo đó, Cửu Huyền Thất Tổ chỉ có nghĩa là vô lượng Tổ Tiên Ông Bà đã chết trong quá khứ của mình .
Đây là nội dung nghĩa mà kinh cầu siêu của Phật giáo Việt Nam ngày nay vẫn đang còn dùng. Nói cụ thể hơn, hiện nay, khi có một vị thầy cúng theo Phật giáo nào đó mà đi tụng kinh dẫn dài theo một đám đưa ma nào đó thì bao giờ cũng có một đoạn văn sau đây: “…Cửu Huyền Thất Tổ trực vãng Tây Phương”. “Tây Phương” , trong giáo lý nhà Phật hiện nay, tương tự như “thiên không tối cao xứ” hay “bồng lai tiên cảnh”… của Đạo giáo. Còn “Trực vãng” là “siêu khuất thẳng về”. Có nghĩa rằng, trong đoạn kinh trên, Cửu Huyền Thất Tổ vẫn chỉ là một tổ hợp từ trỏ chung những ông bà “đã chết” của mình.
V.- KẾT LUẬN :-
Tóm lại, Cửu Huyền Thất Tổ , vào thuở ban sơ, là một tổ hợp từ do Đạo giáo chế tác bằng cách vay mượn từ ngữ Thất Tổ của Đạo Nho kết hợp vào từ ngữ Cửu Huyền vốn từng có trước đó trong Đạo của mình. Khi đã trở thành thuật ngữ mới, đương nhiên là nó phải mang nội dung nghĩa đầu tiên theo quan điểm của Đạo giáo. Sau đó, trong hoàn cảnh tam giáo hợp nhất xảy ra, Đạo Phật đã mượn lại tổ hợp từ này từ Đạo giáo. Riêng bản thân Nho giáo thì có vẻ đã chưa từng mượn tổ hợp từ này trong sinh hoạt tế tự nội bộ của mình nhưng lại mượn một điều đặc biệt hơn,quan trọng hơn. Đó là thế giới tâm linh trong tư tưởng của nhà Phật và thế giới siêu thoát thế gian trong tư tưởng của Đạo giáo. Hay nói cách khác, khi Tam Giáo Hợp Nhất , Đạo Nho bấy giờ cũng như cái vỏ ốc tư duy hóa thạch đang hồi thô ráp rỗng ruột được đổ đầy vào đó tinh thần từ bi bác ái của nhà Phật cùng tinh thần phóng khoáng tự do khinh bạc tung hoành xuất thế của Đạo giáo. Nhưng dù biện giải theo quan điểm tôn giáo của mình như thế nào, giữa Đạo giáo và Phật giáo , thì Cửu Huyền Thất Tổ cũng vẫn là một tổ hợp từ điểm chỉ các thế hệ tổ tiên ông bà đã chết trong quá khứ của mình.
Rất khác với quan điểm thờ cúng của Nho gia hay Nho giáo: thờ cúng theo dòng , theo chi, theo nhánh và tại từng dòng , từng chi, từng nhánh này lại chỉ thờ cúng tới 5 đời tổ so với bản thân mình; khi tổ thứ 5 trở thành thứ 6 theo thời gian thì không trực tiếp thờ cúng nữa.(ngũ thế tắc thiên hay đoạn ngũ đại). Chẳng những vậy, họ chỉ tập chú thờ cúng các Tổ Ông ; cố tình phân biệt , bỏ rơi hoặc xem khinh phân nửa tổ còn lại , ấy là các Tổ Bà. Phản ánh rất rõ tư duy phong kiến: vừa tôn ti thứ bậc thân sơ dựa trên quan hệ quyền lực sở hữu và lợi ích truyền thừa sản nghiệp là chính lại vừa ẩn chứa thường trực xu hướng cát cứ phân rẽ nơi họ: không có yếu tố bình đẳng cận mật gì với nhau trong bản chất của sự quan hệ.
Trong khi đó, Cửu Huyền Thất Tổ là một khái niệm thờ cúng mang tính “đồng nguyên” tuyệt đối trong tình cảm lẫn trong tư duy. Phản ánh tính chất duy nhân bản và hòa thân , phóng khoáng trong quan điểm triết lý sống đời của những ai theo loại tín ngưỡng thờ cúng này,dù sắc thái lễ nghi biểu hiện ra sao…
KÍNH CHÚC QUÝ KHÁCH PHÚ QUÝ THO KHANG NINH
số 63 đường 25m Thanh Liệt, Hà Nội
ĐT: 0913.870.861 , Email : dothohaimanh.vn@gmail.com
https://dothogiadinh.vn , www.fb.com/dothohanoi
Quý khách có thể bấm vào các đường dẫn sau đây để xem các bài chuyên san khác có nội dung liên quan:
Sơ đồ và cách bài trí bàn thờ gia tiên
Video hướng dẫn cách bài trí bàn thờ gia tiên
Lập và trang trí bàn thờ Tổ, bàn thờ chi, bàn thờ Vọng, bàn thờ người mới mất, bàn thờ bà cô ông mãnh
Bàn thờ tổ tiên - nét văn hóa của dân tộc Việt Nam
Bàn thờ Phật - Bàn thờ Gia Tiên trong nhà
Cách sắp xếp bàn thờ như thế nào là đúng
Cách đặt ảnh thờ
Tại sao lại Nam Tả - Nữ Hữu
Giải đáp thắc mắc về bàn thờ gia tiên trong gia đình người Công Giáo
Cách sắp xếp Tượng thờ Thiên Chúa trong gia đình
Bàn thờ Thần Tài và Ông Địa
Đồ gỗ Mỹ nghệ và Cây cảnh Nghệ thuật Hải Minh
Làng nghề 2 Hải Minh MỪNG NOEL 2013
Hải Minh hôm nay
Hải Minh một xã vùng giáo hào sảng tài hoa
Hải Minh đường tới rất đẹp giàu
Kèn đồng Phạm Pháo
Cầu Ngói chợ Lương
Bàn thờ Thiên Chúa
Nội thất Chùa Bái Đính - Ninh Bình
Nội thất Chùa Giàn - Hà Nội
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Bản dịch tiếng Việt của Giấy phép Công cộng GNU
Người dịch Đặng Minh Tuấn